Viết Cho Những Điều Bé Nhỏ - Học Trò Bên Kia Phá Tam Giang
Nơi Kỉ Niệm Tuổi Thơ Lấp Lánh
Từ Huế nhìn về phía Bắc, bên kia phá Tam Giang, là những làng quê yên bình của đất Ngũ Điền. "Viết Cho Những Điều Bé Nhỏ - Học Trò Bên Kia Phá Tam Giang" là tập truyện ngắn của nhà văn Lê Phi Tân, mang đến cho độc giả những câu chuyện mộc mạc, giản dị về tuổi thơ của một cậu bé lớn lên giữa khung cảnh làng quê thanh bình.
Những trang viết của Lê Phi Tân như đưa người đọc trở về với những kỉ niệm ấu thơ hồn nhiên, trong veo. Đó là những buổi chiều thơ ngây, cùng bạn bè ngồi trước sân nhà ngắm khói lam bay lên trời xanh, mơ mộng về những điều kì diệu. Đó là những đêm không trăng, cậu bé tự mình đi về nhà, lòng đầy lo lắng nhưng vẫn giữ vững niềm tin và sự an toàn bởi lời dặn của bà nội: "Niệm Phật và cứ bước đi về nhà".
Cảm Nhận Về Tập Truyện
Tập truyện "Viết Cho Những Điều Bé Nhỏ - Học Trò Bên Kia Phá Tam Giang" không chỉ là những câu chuyện đẹp về tuổi thơ mà còn là bức tranh chân thực về cuộc sống làng quê Việt Nam. Ngôn ngữ của Lê Phi Tân giản dị, trong sáng, đầy chất thơ, gợi lên những cảm xúc sâu lắng, da diết về tình cảm gia đình, tình bạn, tình thầy trò.
Đọc "Viết Cho Những Điều Bé Nhỏ - Học Trò Bên Kia Phá Tam Giang", người đọc sẽ tìm thấy những giá trị tinh thần đẹp đẽ, những bài học về cuộc sống, về tình yêu thương, về lòng dũng cảm và niềm tin vào cuộc sống. Tập truyện là món quà tinh thần ý nghĩa dành cho những ai yêu thích văn học quê hương, những ai muốn tìm về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ.
Giới Thiệu Tác Giả
PHI TÂN là bút danh của nhà văn, nhà báo Lê Phi Tân. Anh sinh năm 1973, quê quán Điền Lộc, Phong Điền, Thừa Thiên Huế, hiện công tác tại Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế.
Các tác phẩm tiêu biểu của Lê Phi Tân:
Ngoại ô thương nhớ
Bên sông Ô Lâu
Về Huế ăn cơm (Tác phẩm được trao tặng thưởng năm 2022 của Hội Nhà văn tỉnh Thừa Thiên Huế)
Văn Học Thiếu Nhi - Cổ Tích Của Ba - Tản Văn Cho Thiếu Nhi
Những tản văn ngắn - cũng có thể gọi là truyện kể ngắn trong Cổ tích của ba chân thật và cảm động. Người bạn nhỏ của xứ Huế ngày xưa - giờ là ba của ba đứa trẻ, bồi hồi nhớ lại tuổi thơ mình mỗi lần về lại làng cũ, nhà xưa, dòng sông thơ ấu. Hồi nhỏ của người cha, tất nhiên khác với tuổi nhỏ bây giờ, từ chuyện chơi, chuyện ăn, chuyện mặc, chuyện đi học. Nhưng chính vì sự khác biệt này, lại là mảnh ghép quý giá, để chính những đứa trẻ ngày nay sẽ thêm tò mò về tuổi thơ của ba mẹ mình, về những câu chuyện ngày xưa,
Phi Tân đã vẽ lên những dòng sông, bờ nước, đồng ruộng, ao làng, sân đình, chợ quê... đầy xao xuyến và đáng nhớ... bằng câu chữ mềm mại. Tác giả dùng nhiều phương ngữ Huế, nhưng đó cũng là cách để bất cứ trẻ con hay ai đó đọc tập sách, cũng có thể biết thêm về một miền ngôn ngữ và văn hóa độc đáo.
Phi Tân chia sẻ: "Tôi đã kể những câu chuyện này với các con của mình, để chúng hiểu thêm về nguồn cội, nơi ba mình sinh ra và lớn lên, rồi từ ký ức của tôi, các con hẳn sẽ biết yêu thương gìn giữ những điều mộc mạc, giềng mối xóm làng, thân tộc."
Làm người - không hẳn từ những bài học lớn lao, mà là từ những chuyện ba mẹ kể hằng ngày, về quê hương, làng xóm và tuổi thơ. Quay về giá trị truyền thống, cũng là cách bồi đắp lòng nhân ái.
Cổ tích của ba - nằm trong tủ sách “Văn học thiếu nhi” của NXB Trẻ. Ở tủ sách này, bạn đọc nhỏ tuổi có thể tiếp xúc được nhiều giọng văn, phong cách viết, làm giàu thêm kiến thức văn chương, văn hóa và ý thức bảo vệ môi trường cho hôm nay và mai sau.
Lớn lên bên dòng Ô Lâu xứ Huế, dù biết bao năm sống nơi phố thị, Phi Tân vẫn là một “người quê” trong suy nghĩ, trong tâm hồn, trong từng trang văn anh viết. Mỗi một câu chữ của “Bên sông Ô Lâu” đều chở nặng tâm tình, nỗi nhớ niềm thương của Phi Tân về con sông tuổi thơ, về món ăn mẹ nấu, về bữa trưa bạn gặt, về những “o”, những “ôn”…, về những người “muôn năm cũ” đã cùng anh đi qua những trang đời không thể nào quên. Để rồi ký ức về một miền quê xứ Huế bên sông Ô Lâu với những phận người có bình dị yên ả, có bão tố dạt trôi… cứ tha thiết trở đi trở lại trong từng trang văn của Phi Tân như một nỗi nhớ chỉ đậm đà hơn theo năm tháng, mà không bao giờ có thể nguôi ngoai…
Trích đoạn từ sách Bên sông Ô Lâu:
- Tuổi thơ tôi ở nông thôn, những năm tám mươi của thế kỷ trước quá nhiều khó khăn thì làm chi có vợt với cầu mà chơi. Môn thể thao duy nhất của lũ trẻ xóm tôi vẫn là đá banh. Mà mỗi khi chơi thì cứ trần trùng trục, quần xà lỏn mà chơi. Rứa mà lũ trẻ xóm tôi vẫn mê môn “thể thao vua” lắm lắm. Chơi đá banh, nhưng không có banh. Thỉnh thoảng mới mua được một trái banh nhựa ngoài chợ, chỉ cần đá mấy trận là xẹp lép, rồi bể luôn.
- Niềm hạnh phúc của tuổi thơ tôi là những lần đi chợ Tết. Tôi nhớ những con bột xanh đỏ tím vàng bắt hình nải chuối, con vịt, con gà hay chiếc thuyền. Tôi nhớ ở hàng mụ Sỏi có treo mấy bức tranh vẽ mai lan cúc trúc và ở hàng mô cũng thắm màu những phong pháo mới. Tôi ngậm ngùi nhìn cô giáo tiểu học của tôi ra chợ bào gừng để kiếm thêm thu nhập cuối năm. Và đến khi trong triêng gióng của mạ có đầy đủ màu cam của mấy củ cà rốt, màu xanh của trái su le và bắp cải, màu đỏ mọng của mấy trái cà chua và màu nâu của mấy tai nấm mèo... thì tôi thấy mạ đang gánh Tết từ chợ về nhà…
- Hồi nhỏ, thỉnh thoảng tôi theo ba mạ đi đò sang ruộng Cồn cắt lúa. Kỳ thực, tôi chỉ làm mỗi việc là dồn lúa lại để người lớn gánh đưa lên đò. Đi gặt lúa ở bên kia sông, nhà nào cũng phải cơm đùm cá bới. Tới trưa thì cơm canh nguội cả nhưng ai cũng thấy ngon miệng. Dòng sông Ô Lâu không rộng nên đến mùa gặt nhộn nhịp hẳn khi cả mấy chục chiếc đò chở đầy lúa vàng nối đuôi nhau từ những cánh đồng ruộng Cồn theo sông vô hói và về bến.
- Thực ra ở xứ Huế, hoa mai vàng là một loài hoa bình dân. Quê tôi ngày trước nhà nào cũng trồng mai. Mai trước sân, mai trong vườn, mai ngoài ngõ... Có nhà phải đến mấy chục cội hoàng mai trồng quanh nhà. Hồi ấy, Tết thì bánh mứt đơn sơ nhưng năm nào nhà tôi cũng có một cành mai cắm trong chiếc bình to, đặt giữa nhà để đón xuân. Có khi là mai của nhà, nở đúng độ, ba tôi cưa một cành đẹp nhất từ cây mai ngoài vườn vô cắm bình; có khi là cành mai của một nhà người quen tặng cho ba.
- Những lần đi xa giữa trùng vây của cát mới thấy cát thật đẹp. Đó là những đồi cát trắng được thiên nhiên bồi đắp tự mấy trăm năm gọi là cụp. Cụp con voi, cụp cái bụ, cụp bàn cờ… Ở dưới chân những cụp cát, thật diệu kỳ là những hồ nước trong xanh leo lẻo có thể nhìn sâu thấy đáy. Giữa mênh mông cát và cát như thế có một loài chim lông trắng gọi là chim Dàng. Chúng làm tổ trên cát, thỉnh thoảng thấy bóng người, chúng sà xuống xoẹt ngang mặt chừng như hù dọa mà cũng như để làm quen… Lần cuối cùng tôi ngồi chơi với cụp cát là kỳ nghỉ hè năm cuối sinh viên. Đêm đó, mấy anh em thân thiết cùng làng rủ nhau ra cụp ngồi ngắm trăng, uống rượu, đàn hát. Những đồi cát rải vàng dưới ánh trăng lấp lóa đẹp đến lạ…
- Hết mùa trọc trọc, khi gió Lào thổi mạnh hơn, trẻ con trong xóm tôi lại lên độn cát đi nhặt nhôm đồng bán kiếm tiền ăn vặt. Tờ mờ sáng, cả bọn rủ nhau đi lên độn Ổ Gà, độn Thanh Hương, hay có khi ra tận biển Khê của Quảng Trị (những địa danh đã từng xảy ra những trận đánh khốc liệt trong chiến tranh) để tìm phế liệu là những vỏ đạn bằng đồng rơi vãi và có cả những chiếc bi đông, mũ cối của chiến tranh để lại… Có bữa mấy đứa nhặt được mấy lon thịt hộp, mở ra thấy hấp dẫn quá nên cho vào miệng luôn. Cũng may là chẳng đứa mô bị đau bụng cả.
- Một buổi chiều tháng Sáu, ba tôi đi làm đồng về, vừa bỏ cái cuốc xuống sân đã nghe giọng ông buồn bã: “Nước mặn lên rồi!” Rứa là đã đến mùa hạn. Gió Lào đuổi nhau rin rít từng đợt trên cánh đồng, nước dưới chân lúa bắt đầu cạn dần. Sông Ô Lâu chẳng khi nào thiếu nước, nhưng đến mùa gió Lào, nước mặn từ biển qua phá Tam Giang dâng cao tràn qua cửa Lác thì sông không còn là dòng nước ngọt mà đã có vị mặn lơ lớ không thể tưới mát ruộng đồng được nữa… Tất cả cánh đồng làng phải nhờ vào hệ thống nước từ chân độn cát để tưới cho cây lúa.
- Tồn tại gần nửa thế kỷ qua, lầu may ở chợ Đông Ba cứ như một nốt trầm lặng lẽ giữa huyên náo của khu chợ lớn nhất Huế. Lối cầu thang nhỏ và tối dẫn lên lầu may, những bức tường loang lổ, ẩm mốc và cả những bàn máy khâu với âm thanh “tạch, tạch, tạch...” đều đặn, cần mẫn của những thợ may ở chợ cứ gợi cho mỗi ai đến đây về sự cũ kỹ, xa vắng…
- Ngôi nhà của lão võ sư dựa vào chân núi Ngự Bình. Đã mấy chục năm rồi, cứ đúng bốn giờ sáng mỗi ngày, lão thức dậy và bắt đầu luyện công cho đến khi trời hửng sáng. Thức dậy cùng lão là ngàn thông của núi xanh miên man, rì rào gió. Những cây thông tưởng như “vô ngôn” kia đã chứng kiến những thế võ nhọc nhằn qua bao năm tháng từ khi lão còn là một chàng trai trẻ tuổi đôi mươi cho đến bây chừ khi năm tháng nhuộm trắng mái đầu.
- Lúa về tới bến, lại phải vác từng bó lên, lại xóc từng bó và gánh về nhà. Những hột lúa vàng rơi rụng đầy trên đò, trên bãi, trên đường… Rứa mới có chuyện đi mót lúa, rồi có thêm loại “lúa đất” chính là những hột lúa rơi rụng khắp nơi. Đến mùa gặt, chỉ cần trời chuyển mát hay lắc rắc vài giọt mưa là nông dân đã lo canh cánh cái cảnh lúa gặt về phơi không được nắng, gạo sẽ xấu rồi rơm bị un đống lại mà thối rữa hết. Bởi thế, đến mùa gặt, trời càng nắng to nông dân càng mừng. Cái cảnh ba tôi đánh trần tấm lưng đen sì (vì mặc áo thì nóng) mà cào lúa trước sân vào những buổi trưa nắng gắt cứ hiện về rất rõ trong tôi mỗi khi mùa gặt tới.
- Mụ Lổng chừ đã có tuổi rồi nên thôi quang gánh chai bao cũng đã hơn chục năm. Mà bữa nay, nghề chai bao nhôm nhựa của mấy o, mấy dì các làng quê cũng đỡ vất vả hơn khi có thêm mấy chiếc xe đạp đồng hành. Trên chiếc xe đạp với một mớ hổ lốn các loại phế phẩm sắt thép, thủy tinh, giấy lộn... của mấy o, mấy dì tưởng như thấy lấp lánh đâu đó nụ cười của mấy đứa con chờ mẹ về với những thức quà khi cái bánh, khi cái kẹo hay thức ăn cho buổi tối như mụ Lổng xóm tôi thuở nào...
- Không như ngư dân sống trên đò vốn chuyên nghề đánh bắt tôm cá trên sông, trên phá vốn có rất nhiều thứ ngư cụ từ đò đến nò, sáo, lưới..., nông dân ở bên sông Ô Lâu quê ông vốn là dân làm ruộng, nhưng nhà mô cũng có sẵ̃n vài thứ ngư cụ để mỗi khi nước xuống, nước lên kiếm thêm con cá, mớ tôm cho bữa ăn hằng ngày thêm chất, thêm ngon. Đó còn là một thú tiêu khiển của người dân quê…
- Mà nghe thằng Bình nhắc lại chuyện bắt cá thia thì lại nhớ cái hồ đầu xóm Kế của tôi. Bởi ngay trên đầu hồ, nơi mấy lỗ phun nước từ dưới đất lên có một cái đìa nhỏ, lũ cá thia hết cặp ni đến cặp khác tới sủi bọt làm tổ. Cứ vài ba ngày, tôi với thằng Bình lại chạy lên đìa coi thử có cặp cá thia mô mới vô ở chưa để bắt về nuôi... Mà ngày mô không chạy lên hồ chơi, lũ con nít xóm tôi cứ có cảm giác thiếu thiếu một cái chi đó. Hồ không sâu, mùa hè có đoạn lội từ bờ ni qua bờ tê được...
Tác giả:
Phi Tân
Sinh 1973. Quê quán: Điền Lộc, Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Hiện đang làm việc tại Đài phát thanh và truyền hình Huế.
Tác phẩm đã xuất bản: Ngoại ô thương nhớ (tập tạp văn, 2020).
Các tác phẩm do Chibooks xuất bản:
- Bên sông Ô Lâu (tản văn, 2021)
- Về Huế ăn cơm (tản văn, 2021)
(cả 2 tác phẩm đều thuộc TỦ SÁCH VĂN HÓA VIỆT, nằm trong dự án TỦ SÁCH VĂN HÓA VIỆT RA THẾ GIỚI, sẽ được dịch ra tiếng Trung và tiếng Anh)
Về Huế Ăn Cơm
Nếu đã đọc “Bên sông Ô Lâu” thì nhất định bạn nên đọc “Về Huế ăn cơm”, để được thêm lần nữa qua những trang văn vừa mộc mạc gần gũi, vừa mênh mang da diết của Phi Tân, cảm về Huế sâu đậm hơn, với nhiều thích thú hơn. Bạn sẽ hiểu thế nào là “ăn” nỗi nhớ niềm thương, bởi “Về Huế ăn cơm” không chỉ viết về những đặc sản của ẩm thực bình dân xứ Huế như bún bò, bánh bột lọc, dưa hường, chột môn, con hến, con giông, cá phá, cá biển, cá đồng…, mà còn là vị Huế, hương Huế quyện cùng cái tình của người Huế, tạo thành những món ngon “thấm đậm” rất Huế mà không nơi nào có…
Tác giả:
Phi Tân - Sinh 1973. Quê quán: Điền Lộc, Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Hiện đang làm việc tại Đài phát thanh và truyền hình Huế. Tác phẩm đã xuất bản: Ngoại ô thương nhớ (tạp văn, 2020).
Tác phẩm do Chibooks xuất bản:
1. Bên sông Ô Lâu (tản văn, 2021)
2. Về Huế ăn cơm (tản văn, 2021)
Huế Chuyện Xưa Thành Cũ
“Với tôi, viết là một niềm hạnh phúc vô bờ. Là một sự TRỞ VỀ đúng nghĩa với tuổi thơ, với những người thân yêu, với quê nhà, với xứ sở... Tôi trìu mến gọi tên đó là MIỀN THƯƠNG! MIỀN THƯƠNG của tôi là xứ Huế, là những dòng sông chảy thao thiết qua bao tháng năm dài bồi tụ nên những bãi bồi phù sa đẫm đầy hoa trái, thắm thiết thành những trầm tích văn hóa rực rỡ của một vùng đất kinh kỳ một thuở rồi xuôi ra phá Tam Giang về với biển khơi... MIỀN THƯƠNG của tôi là những câu chuyện xưa cũ chỉ còn trong KÝ ỨC đã được nuôi nấng trong tâm hồn tôi và chỉ cần ‘khẽ chạm’ là bao nhiêu thương nhớ trở về thơm thảo thật thà như hoa trái vườn xưa luôn sinh động, hồn nhiên, da diết hồn quê tình xứ. Tôi thực sự là một người hạnh phúc khi có KÝ ỨC và tỉ mẩn gom nhặt, nâng niu những KÝ ỨC đó thành những trang văn về Huế... Khi bạn đọc HUẾ – CHUYỆN XƯA, THÀNH CŨ là bạn đang chạm vào KÝ ỨC của tôi, KÝ ỨC của Huế, cũng có thể là KÝ ỨC của bạn. Mong rằng bạn cũng sẽ ngập tràn hạnh phúc như tôi! Bởi KÝ ỨC không đơn thuần là nỗi nhớ, KÝ ỨC là tình yêu vĩnh cửu của đời người...”
– Phi Tân
Tác giả:
Tác giả Phi Tân sinh năm 1973 tại Điền Lộc, Phong Điền, Thừa Thiên Huế; là cựu sinh viên khoa Ngữ văn – Đại học Tổng hợp Huế; hiện công tác tại Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế.
“Bây chừ, mỗi lần ngang qua đường Kim Long, tôi vẫn dò tìm dấu tích bến đò xưa và nhận ra rằng Huế đó, một thành phố nhỏ và hiền như những bến đò bên dòng Hương Giang, nhưng để đi hết chiều sâu của Huế thì… thăm thẳm như lòng sông Hương, không biết đi mãi đến bao giờ!” - Phi Tân
Tải PDF tài liệu học tập đang trở thành lựa chọn phổ biến cho sinh viên và người đi làm nhờ tính tiện lợi và tiết kiệm thời gian. Tài liệu PDF cung cấp nhiều nội dung từ sách PDF, tài liệu nghiên cứu, đến giáo trình chuyên ngành, giúp người dùng dễ dàng lưu trữ và truy cập trên các thiết bị số. Việc sử dụng tài liệu PDF không chỉ giúp tăng cường kiến thức mà còn hỗ trợ học tập và làm việc hiệu quả hơn.