1. Sách
  2. ///
Logo Banner Home

Tác Giả joel dicker

Tổng hợp sách của tác giả joel dicker tại KhoSach.com.vn
name

Tác phẩm

Bốn năm sau vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola, Marcus Goldman đến Floride để tìm cảm hứng cho cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Anh tình cờ gặp lại Alexandra Neville, mối tình thời niên thiếu mà anh từng đánh mất và giờ đây nàng đã trở thành ca sĩ nổi tiếng.  Marcus vẫn còn yêu say đắm Alexandra và ngay lập tức anh cố gắng tìm ra nguyên do vì sao anh lại từ bỏ nàng. Đắm chìm trong dòng hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ và thời niên thiếu, Marcus đã vẽ nên một bức tranh về những thành viên gia đình Goldman ở Baltimore mà anh một lòng ngưỡng mộ và cũng là cơ duyên dẫn Marcus quen biết Alexandra.

Marcus Goldman, thuộc tầng lớp trung lưu, sinh sống trong một căn nhà nhỏ ở thị trấn Montclair. Cứ tới kì nghỉ hè hằng năm, Marcus đều đến căn biệt thự nghỉ dưỡng xa hoa của bác Saul Goldman ở Baltimore và sống những ngày tháng hạnh phúc nhất với hai người anh họ của mình là Woody và Hillel. Họ tạo thành Những chàng trai Baltimore hay Hội Goldman. Họ là những con người tài năng, nhiệt huyết, là trung tâm chú ý ở bất cứ nơi nào họ xuất hiện. Nhưng tương lai rực rỡ và vinh quang chói lóa lẽ ra thuộc về họ bỗng chốc sụp đổ chỉ  vì một phút đố kị, lý trí đã bị lòng ghen tuông và sự phản bội hạ gục, khiến cả gia đình rơi vào Thảm kịch.

Suốt nhiều năm trời, Marcus đã phải vật lộn với những gánh nặng đeo đẳng của quá khứ. Tám năm sau Thảm kịch, anh quyết định kể ra sự thật về câu chuyện của chính gia đình mình để xua đuổi nỗi ám ảnh, làm phương thuốc chữa lành mọi nỗi khổ đau.

Một tác phẩm xuất sắc nữa của nhà văn trẻ Joel Dicker sau thành công của Sự thật về vụ án Harry Quebert. Joel Dicker chỉ đơn thuần kể ra một câu chuyện gia đình trong đó những thành viên gắn kết yêu thương nhau, nhưng chính sự ghen tuông, sự ganh đua và phản bội đã đẩy họ tới một bi kịch thảm khốc và không thể vãn hồi.

 Tác giả

Joël Dicker sinh năm 1985 tại Geneva (Thụy Sĩ). Sau thành công vang dội từ Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola (3 giải thưởng văn học danh giá, tác giả Pháp ngữ được đọc nhiều nhất năm 2012), tiểu thuyết Những chàng trai Baltimore là cuốn thứ ba của tác giả ăn khách người Thụy Sĩ này.

Sau khi được xuất bản, tác phẩm nhanh chóng tạo nên làn sóng trong nền văn học châu Âu, hút độc giả vào câu chuyện không-thể-chân-thực-hơn-về-tấn-thảm-kịch-gia-đình của những con người đã đánh mất tương lai và vinh quang của mình chỉ vì lòng đố kị.

Một số trích đoạn trong tác phẩm

Trích đoạn 1:

Bác Saul Goldman là anh trai bố tôi. Trước Thảm kịch, trước những sự kiện mà tôi chuẩn bị kể ra đây, bác Saul là một yếu nhân, nói như cách của ông bà tôi. Bác điều hành cả một hãng luật nổi tiếng nhất Baltimore, và chính bác đã tham dự vào các vụ án nổi tiếng khắp vùng Maryland. Vụ Dominic Pernell, chính bác Saul là người giải quyết. Vụ Thành phố Baltimore kiện Morris, cũng chính là bác. Vụ bán trái phép Sundridge, cũng vẫn là bác Saul. Ở Baltimore, ai cũng biết bác. Bác tôi liên tục xuất hiện trên báo chí và truyền hình. Tôi còn nhớ rõ hồi ấy tôi thấy mọi chuyện ấn tượng mạnh đến thế nào. Bác tôi kết hôn với người con gái mà bác yêu từ thời đại học, sau này trở thành bác Anita của tôi. Trong con mắt trẻ thơ của tôi, bác Anita là người phụ nữ đẹp nhất, là người mẹ dịu dàng nhất. Bác Anita là bác sĩ chủ lực của khoa ung bướu bệnh viện Johns Kopkins, một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất nước. Hai bác có chung với nhau một cậu con trai tuyệt vời tên là Hillel. Anh tôi tốt bụng, có năng lực trí tuệ thiên bẩm cao hơn hẳn người bình thường. Hai chúng tôi chỉ cách nhau vài tháng tuổi và coi nhau như anh em ruột thịt rất thân thiết.

Những thời điểm trọng đại nhất thời niên thiếu của tôi đều xảy ra tại nhà bác Goldman ở Baltimore. Trong một thời kì rất dài, chỉ cần nhắc đến gia đình bác Saul cũng đủ làm cho tôi tự hào và hạnh phúc. Cho tới lúc đó, trong số tất cả các gia đình mà tôi biết, trong số tất cả những người mà tôi gặp, gia đình bác Saul ở một đẳng cấp cao hơn hẳn: hạnh phúc hơn, thành đạt hơn, tham vọng hơn, được tôn trọng hơn. Suốt một thời gian dài, cuộc đời cho thấy tôi có lí. Gia đình bác Saul gồm những con người có tầm cỡ hơn hẳn. Tôi hoàn toàn thán phục cách những con người đó đối diện với cuộc sống một cách đơn giản, lóa mắt trước ánh sáng rạng rỡ mà họ tỏa ra, phục sát đất sự giàu có của họ. Tôi chiêm ngưỡng phong thái đi đứng đĩnh đạc, khối tài sản kếch xù, địa vị xã hội cao của họ. Dinh thự rộng thênh thang, những chiếc ô tô hạng sang, rồi cả khu nhà nghỉ dưỡng mùa hè của gia đình ở Hamptons, căn hộ tại Miami, những kì nghỉ trượt tuyết vào tháng Ba hằng năm ở Whitsler, Columbia thuộc Anh của Canada. Sự đơn giản của họ, hạnh phúc của họ. Lòng tốt của họ với tôi. Sự đẳng cấp diệu vợi khiến bạn cứ tự nhiên mà chiêm ngưỡng. Họ không gây đố kị: họ quá đẳng cấp khiến ta không thấy phải ghen tị. Họ được thánh thần ban phước. Rất lâu, tôi cứ tin sẽ chẳng có gì có thể xảy ra với họ. Rất lâu, tôi cứ tưởng họ vĩnh viễn là như thế.

 

Trích đoạn 2:

Cách gọi “gia đình Goldman ở Baltimore” là để phân biệt với gia đình tôi, có bố mẹ tôi và tôi sống ở Montclair. Gia đình tôi được gọi là gia đình Goldman ở Montclair, New Jersey. Rồi dần dần, rút gọn cho nhanh, gia đình tôi được gọi là nhà Montclair, còn gia đình bác Saul là nhà Baltimore. Ông bà chúng tôi nghĩ ra cách gọi này trước để nói chuyện cho dễ, nên tự nhiên họ tách biệt hai gia đình theo hai nơi sinh sống khác nhau. Ví dụ như khi tất cả chúng tôi đến Florida nơi ông bà sinh sống để nghỉ lễ, họ có thể nói: “Nhà Baltimore đến vào thứ Bảy còn nhà Montclair tới hôm Chủ nhật.” Mới đầu kiểu phân biệt này chỉ là một cách gọi thân thương hai gia đình, nhưng về sau nó cũng trở thành cách để nêu bật đẳng cấp của gia đình Goldman ở Baltimore ngay trong nội bộ dòng tộc. Thực tế tự nó chứng minh: Nhà Baltimore là luật sư kết hôn với bác sĩ, có hai con trai theo học trường tư hàng đầu thành phố. Còn nhà Montclair có bố tôi là kĩ sư, mẹ tôi là nhân viên bán quần áo thời trang của chuỗi cửa hàng ở New Jersey thuộc một tập đoàn ở New York, còn tôi là cậu học trò trường công.

Ngay cả trong cách diễn tả bằng ngôn ngữ gia đình, ông bà tôi cũng gắn liền giọng điệu để thể hiện tình cảm ưu ái đối với nhà Baltimore: lúc thoát ra khỏi miệng ông bà, từ “Baltimore” cứ như thể được mạ vàng, còn “Montclair” như được nhuốm nhớt ốc sên. Những lời khen ngợi lúc nào cũng dành cho nhà Baltimore, còn nhà Montclair chỉ được nhận những lời bôi bác. Nếu vô tuyến nhà ông bà bị hỏng thì chỉ có thể tại tôi điều chỉnh loạn cả lên; nếu như bánh mì không được ngon thì là tại bố tôi mua. Ổ bánh mì bác Saul mang đến luôn tuyệt hảo, còn nếu như tivi lại hoạt động bình thường thì là nhờ Hillel sửa được. Thậm chí, ngay cả ở những tình huống giống hệt nhau thì cách đối xử cũng khác: nếu như một trong hai gia đình về ăn cơm với ông bà muộn, trong trường hợp nhà Baltimore thì ông bà sẽ nghĩ khổ thân chúng nó, chắc là lại bị kẹt xe. Nhưng nếu nhà Montclair chúng tôi tới trễ, ông bà sẽ chắc mẩm chúng tôi không bao giờ biết đúng giờ là gì. Trong mọi trường hợp thì nhà Baltimore đều là đỉnh của cái đẹp, còn nhà Montclair cần phải cố gắng cải thiện cho tốt hơn. Trứng cá hồi cao cấp nhất của nhà Montclair cũng không bao giờ có thể sánh ngang với miếng bắp cải thối của nhà Baltimore. Khi chúng tôi có dịp cùng với nhau đi nhà hàng hay các trung tâm thương mại, nếu như bất chợt gặp người quen, ông bà tôi sẽ giới thiệu thế này: “Đây là Saul, con trai tôi, một luật sư danh tiếng. Đây là con dâu tôi, Anita, một bác sĩ uy tín của bệnh viện John Hopkins, đây là cháu tôi Hillel, thực sự là một cậu bé thiên tài.” Thế là mỗi thành viên trong gia đình Baltimore sẽ nhận một cái bắt tay và một cái cúi đầu chào hỏi. Tiếp đó, ông tôi hờ hững giới thiệu gia đình chúng tôi, nói luôn một lèo cả bố mẹ và tôi: “Còn đây là con trai út của tôi và vợ con nó.” Thế là chúng tôi nhận được một cái gật đầu chào khá là giống với cái kiểu người ta gật đầu chào bảo vệ tòa nhà hoặc người giúp việc.

Khi tôi còn nhỏ, có một sự cân bằng hoàn hảo duy nhất giữa hai gia đình Goldman, Goldman ở Baltimore và Goldman ở Montclair, đó là số thành viên mỗi gia đình: hai gia đình chúng tôi, mỗi gia đình đều có ba người. Nhưng nếu như theo thống kê dân số chính thức thì gia đình Goldman ở Baltimore có ba thành viên, còn những người biết rõ gia đình này sẽ nói rằng họ có bốn người. Bởi vì rất nhanh sau đó, anh họ Hillel của tôi, người mà cho đến tận lúc đó vẫn chia sẻ với tôi tất cả những thói hư tật xấu của một đứa con một, đã nhanh chóng may mắn có một cậu em trai. Tiếp theo sau chuỗi sự kiện mà tôi sắp kể chi tiết đây thì người ta rất nhanh chóng thấy bên cạnh Hillel lúc nào cũng kè kè một người bạn không rời nửa bước, một người sẽ không ai tin là lại có thực nếu như không biết: anh tên là Woodrow Finn - hay Woody như chúng tôi thường gọi - đẹp trai, khỏe mạnh, cao ráo, đa tài, chu đáo và luôn có mặt khi chúng tôi cần.

Woody nhanh chóng giành được vị trí của mình trong gia đình Goldman ở Baltimore, anh vừa trở thành một thành viên của gia đình đó, vừa là một thành viên nhà tôi - một người cháu họ, một đứa con trai, một người anh em. Sự tồn tại của anh - sự hòa nhập tuyệt đối của anh - hiển nhiên tới mức mà khi không thấy anh trong buổi đoàn tụ gia đình thì ngay lập tức chúng tôi sẽ hỏi xem anh đâu rồi. Chúng tôi lo lắng không biết Woody có đến không, coi sự có mặt của Woody không chỉ là cho phải phép mà còn là dứt khoát cần thiết, để cuộc sum vầy trọn vẹn. Nếu hỏi bất kì aicòn nhớ những ngày xưa ấy xem gia đình Goldman ở Baltimore có những ai thì họ đều kể tên Woody mà không hề lăn tăn gì. Vậy là họ lại chiến thắng: trong trận đấu giữa Montclair với Baltimore, khi hai bên đang là ba đều thì tỉ số đã được nhanh chóng nâng lên 4-3 nghiêng về phía Baltimore.

Woody, Hillel và tôi là nhữngngười bạn thân thiết nhất trên đời. Những tháng năm tươi đẹp của tôi với nhà Baltimore là khi có Woody, trong những năm 1990-1998. Đây vừa là những năm tháng đầy phước lành, lại cũng là những năm tháng tạo nền tảng cho Thảm kịch sau này. Từ hồi lên mười đến khi mười tám tuổi, chúng tôi là bộ ba tuyệt đối không bao giờ tách rời. Chúng tôi giống như kiềng ba chân, bộ tam mà chúng tôi rất đỗi tự hào gọi là “Hội Goldman”. Chúng tôi yêu quý nhau như anh em ruột thịt,chúng tôi trao cho nhau những lời tuyên thệ trọng thể nhất, chúng tôi hòa máu thề mãi trung thành, giữ vững tình huynh đệ vĩnh cửu. Mặc cho tất cả những điều diễn ra sau đó, tôi vẫn tưởng nhớ những năm tháng này như một thời kì đặc biệt: thời kì huy hoàng của ba thiếu niên trên đất Mỹ được thánh thần ban phước.

name

Tác phẩm

Sau thành công của tiểu thuyết Sự thật vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola từng được đánh giá là tác phẩm thổi bay Hỏa Ngục khỏi các bảng xếp hạng năm 2014, Joël Dicker một lần nữa tiếp tục chinh phục độc giả với tác phẩm mới nhất và vô cùng xuất sắc của mình - Sự thật vụ mất tích nữ nhà báo Stephanie Mailer.

Ngày 30 tháng 7 năm 1994, vào đêm khai mạc Liên hoan sân khấu đầu tiên được tổ chức tại thành phố Orphea, thị trưởng Gordon cùng vợ con đã bị sát hại tại nhà riêng. Trước cửa nhà ông thị trưởng, thi thể của nữ thủ thư Meghan Padalin cũng nằm trong vũng máu. Điều tra viên Jesse và trung sĩ Derek là những người đầu tiên tiếp cận hiện trường và được giao phụ trách vụ án này. Bắt tay vào điều tra, cả hai gặp vô vàn khó khăn bởi lẽ không có bất kỳ nhân chứng nào cũng như không tìm thấy động cơ nào dẫn đến vụ thảm sát cả gia đình ông thị trưởng. Sau rất nhiều nỗ lực, họ đã tìm được một nghi phạm thích hợp, đó là Ted Tennenbaum, chủ một nhà hàng vốn có hiềm khích với ngài thị trưởng. Và trong một cuộc truy đuổi, Ted đã mất mạng khi lao xe xuống cầu sông.

Hai mươi năm sau, vào bữa tiệc chia tay Jesse (lúc này đã là đại úy) nghỉ hưu, nữ nhà báo Stephanie Mailer bất ngờ tiết lộ với anh rằng anh và cộng sự của mình đã bị nhầm về thủ phạm của vụ án năm xưa, theo đó Ted quá cố không phải là hung thủ giết hại bốn mạng người vào năm 1994.

Vài giờ sau tiết lộ chấn động đó, cô phóng viên Stephanie đột nhiên mất tích cùng với bí ẩn về thủ phạm thực sự của vụ án mạng hai mươi năm trước khiến Jesse buộc phải yêu cầu cấp trên cho mở lại vụ án. Lần theo các manh mối phát hiện được tại nhà Stephanie, Jesse và  Dereck bắt đầu chạy đua với thời gian để tìm ra thủ phạm thực sự không chỉ thảm sát bốn người vào năm 1994, mà còn khiến Stephanie mất mạng cũng như còn nhiều cái chết tiếp theo. Và hai mươi năm sau, những bí ẩn cùng rất nhiều nhân chứng liên quan tới vụ án năm xưa mới dần hé lộ.

Bạn đọc một lần nữa sẽ trải qua những phút giây ngộp thở bởi tài năng xây dựng tình tiết câu chuyện của Joel Dicker mà phải đến trang cuối cùng mọi bí ẩn mới được giải đáp:  vẫn không gian - thời gian của một nước Mỹ “giả tưởng”, vẫn thủ pháp kể chuyện đan xen sự kiện giữa hiện tại và quá khứ, vẫn hệ nhân vật đa chiều, mỗi nhân vật lại có một câu chuyện riêng rất đáng chú ý.

 Tác giả

Joël Dicker sinh năm 1985 tại Geneva (Thụy Sĩ). Sau thành công vang dội từ Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola (3 giải thưởng văn học danh giá, tác giả Pháp ngữ được đọc nhiều nhất năm 2012), tiểu thuyết Sự thật vụ mất tích nữ nhà báo Stephanie Mailer là cuốn thứ tư của tác giả ăn khách người Thụy Sĩ này.

Tác phẩm trinh thám mới nhất của Joël Dicker một lần nữa khẳng định tài năng của tác giả trong nghệ thuật tạo dựng những thước phim hình sự gay cấn với tuyến nhân vật đa dạng, các tình huống bất ngờ khiến độc giả như lạc vào mê cung của thật-giả, đúng-sai.

Một số trích đoạn trong tác phẩm

Trích đoạn 1:

Đôi lời về các sự kiện ngày 30 tháng Bảy năm 1994

Chỉ có những người thân thuộc với vùng Hamptons thuộc bang New York mới phong thanh biết được những chuyện đã xảy ra vào ngày 30 tháng Bảy năm 1994 tại Orphea, một thành phố nhỏ giàu có nằm bên bờ đại dương.

Tối đó, Orphea khai mạc Liên hoan sân khấu đầu tiên của thành phố này, và sự kiện có quy mô toàn quốc này đã thu hút một lượng khán giả đông đảo. Ngay từ cuối buổi chiều, các du khách và cư dân địa phương đã bắt đầu tụ tập trên đường phố chính để tham dự rất nhiều hoạt động lễ hội do Tòa thị chính tổ chức. Người ta rời hết khỏi các khu dân cư, khiến những nơi này chẳng khác nào một thành phố ma: không còn những người đi dạo trên vỉa hè, không còn những cặp đôi dưới các mái vòm, không còn lũ trẻ trượt pa tanh trên đường phố, trong các khu vườn cũng chẳng còn một ai. Tất cả mọi người đều ở đường phố chính.

Khoảng 20 giờ, trong khu phố Penfield vắng ngơ vắng ngắt, dấu vết duy nhất của sự sống chính là một chiếc xe hơi chậm rãi chạy dọc theo những con phố bị bỏ rơi. Ngồi sau tay lái, một người đàn ông chăm chăm nhìn vào các vỉa hè, trong đôi mắt ánh lên nỗi lo âu. Anh chưa từng cảm thấy cô độc đến thế trên đời. Chẳng có người nào giúp anh. Anh không còn biết phải làm gì. Anh đang tuyệt vọng đi tìm vợ: cô đã đi chạy thể dục và không trở về nữa.

Samuel và Meghan Padalin thuộc số hiếm những cư dân quyết định ở lại nhà trong tối khai mạc Liên hoan sân khấu. Họ không mua được vé xem vở diễn mở màn, vì trước đó quầy bán vé chẳng khác nào bị tấn công, và họ cũng không thấy thích thú gì với việc chen lấn tham gia các hoạt động lễ hội trên đường phố chính và trên bến du thuyền.

Đến cuối ngày, Meghan rời khỏi nhà, giống như tất cả những ngày khác, vào khoảng 18 giờ 30 phút, để chạy bộ. Ngoại trừ Chủ nhật, ngày cô cho phép thân thể mình nghỉ ngơi một chút, tất cả các tối trong tuần cô đều rèn luyện trên cung đường đó. Cô rời khỏi nhà và chạy ngược phố Penfield, lên đến tận Penfield Crescent, một đường vòng cung bao quanh một công viên nhỏ. Cô dừng lại ở đó để thực hiện một loạt những bài tập trên cỏ - luôn là những bài tập ấy - rồi quay trở về nhà vẫn theo con đường vừa rồi. Chuyến chạy bộ của cô kéo dài đúng bốn mươi lăm phút. Đôi khi là năm mươi phút, nếu cô kéo dài thời gian tập trên cỏ. Không bao giờ lâu hơn.

Đến 19 giờ 30 phút, Samuel Padalin ngạc nhiên thấy vợ anh vẫn chưa về.

Đến 19 giờ 45 phút, anh bắt đầu cảm thấy lo lắng.

Đến 20 giờ, anh bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách.

Đến 20 giờ 10 phút, không thể chịu đựng nổi nữa, rốt cuộc anh lấy xe hơi để đi quanh khu phố. Dường như đối với anh, cách làm hợp lô gich nhất là lần theo đúng cung đường chạy quen thuộc của Meghan. Và anh đã làm thế.

Anh rẽ vào phố Penfield, rồi lái xe ngược lên đến tận Penfield Crescent, rồi rẽ ngoặt. Đã 20 giờ 20 phút. Chẳng có một mống người nào. Anh dừng lại một lát để quan sát công viên nhưng không nhìn thấy ai. Chỉ đến khi nổ máy trở lại anh mới nhìn thấy một hình dạng trên vỉa hè. Lúc đầu anh tưởng rằng đó là một đống quần áo. Rồi hiểu ra rằng đó là một thân người. Anh vội lao ra khỏi xe, tim đập thình thịch: chính là vợ anh.

Khi làm việc với cảnh sát, Samuel Padalin sẽ nói rằng lúc đầu anh tưởng rằng vợ anh bị mệt vì nóng. Anh sợ rằng vợ anh bị nhồi máu cơ tim. Nhưng khi lại gần Meghan, anh nhìn thấy máu và lỗ thủng ở đằng sau hộp sọ cô.

Anh bắt đầu gào lên, gọi người đến cứu, không biết phải ở lại bên vợ hay chạy đi gõ cửa các nhà để nhờ ai đó gọi cấp cứu. Mắt anh mờ đi, anh có cảm giác hai chân không đủ sức nâng đỡ cơ thể mình nữa. Cuối cùng, những tiếng gào hét của anh cũng đánh động được một cư dân sống ở con phố song song, ông này đã gọi cấp cứu.

Vài phút sau, cảnh sát phong tỏa khu phố.

Chính là một trong số những nhân viên cảnh sát đầu tiên đến hiện trường, vào thời điểm thiết lập phạm vi phong tỏa, đã nhận thấy rằng cánh cửa nhà ông thị trưởng thành phố, căn nhà nằm ngay đằng trước xác Meghan mặc quần áo thể dục chạy bộ, đang hé mở. Cảm thấy tò mò, anh lại gần. Anh nhận thấy cánh cửa đã bị phá hỏng. Anh lấy súng ra khỏi bao, nhảy lên các bậc tam cấp và lên tiếng gọi. Không có ai trả lời. Anh giơ mũi chân đẩy cánh cửa và nhìn thấy xác một người phụ nữ nằm sóng soài trong hành lang. Anh lập tức gọi người chi viện, rồi chầm chậm tiến vào trong nhà, súng lăm lăm trên tay. Ở bên tay phải, trong phòng khách nhỏ, anh kinh hoàng phát hiện ra xác một cậu bé. Rồi, trong phòng bếp, anh nhìn thấy ông thị trưởng nằm trong vũng máu, ông cũng đã bị giết chết.

Cả gia đình đã bị sát hại.

 

Trích đoạn 2:

Tôi vẫn còn nhớ thời điểm tôi nhìn thấy cô. Cô gái có đôi mắt biết cười, trạc hai mươi tuổi, với những lọn tóc mềm mại tuyệt đẹp cùng hàm răng trắng lấp lóa đứng trước mặt tôi và đọc tấm biển.

- Anh cầm ngược tấm biển rồi, cô bảo tôi.

Tôi nhún vai.

- Chuyện đó thì có liên quan gì đến cô? Cô là cảnh sát biển báo à?

- Anh không nói được tiếng Nga sao?

- Không, tôi trả lời rồi quay tấm biển lại cho đúng chiều.

- Krassavtchik, cô gái chế nhạo tôi.

- Cô là ai thế? Tôi cáu kỉnh hỏi.

- Tôi là Natasha, cô mỉm cười với tôi. Tên tôi ở trên tấm biển của anh.

Natasha vừa bước vào đời tôi.

*

Nhan sắc của cô khiến tôi mù quáng, sự dịu dàng của cô khiến tôi tan chảy, trí thông minh của cô khiến tôi bị chinh phục. Không có chủ đề nào mà cô không thể nói chuyện, không một cuốn sách nào mà cô chưa đọc. Cô biết hết về mọi chủ đề. Và đặc biệt, điều khiến tôi vô cùng hạnh phúc là trái ngược với những gì ông bà tôi vẫn khẳng định, cô không hẳn là họ hàng, hoặc giả là phải ngược về quá khứ cả một thế kỷ mới tìm được một vị tổ tiên chung giữa chúng tôi.

Nhiều tuần rồi nhiều tháng trôi qua, sự hiện diện của Natasha làm nảy sinh một bầu không khí nhộn nhịp hoàn toàn mới mẻ trong ngôi nhà của ông bà tôi. Cô chơi cờ với ông, trò chuyện với ông không dứt về chính trị, và trở thành linh vật của nhóm người già ở cửa hàng thịt, hiện đã phải di dời đến một quán cà phê trên đai lộ Queens, cô nói chuyện với họ trực tiếp bằng tiếng Nga. Cô cùng bà tôi đi chợ, giúp đỡ bà việc nhà. Hai người nấu ăn cùng nhau, và Natasha tỏ ra là một đầu bếp ngoại hạng.

Căn nhà thường rộn rã với những cuộc trò chuyện qua điện thoại giữa Natasha và các chị em họ của cô - những người họ hàng thực sự - sống rải rác khắp địa cầu. Thỉnh thoảng cô bảo tôi: “Chúng tôi giống như cánh của một bông hoa bồ công anh, tròn xoe tuyệt đẹp, và gió đã thổi mỗi người chúng tôi đến các phương trời khác nhau trên Trái đất.” Cô treo chiếc điện thoại vào cổ, dù là điện thoại trong phòng cô, điện thoại ở phòng ngoài hay điện thoại trong bếp, bằng sợi dây co giãn của nó, và cô bi bô nói vào ống nghe suốt nhiều giờ liền, bằng đủ các thứ tiếng và vào bất kỳ giờ nào dù ngày hay đêm, do chênh lệch múi giờ. Chị em họ của cô có một người ở Paris, một người ở Zurich, một người ở Tel-Aviv, một người ở Buenos Aires. Ngôn ngữ của cô lúc là tiếng Anh, lúc là tiếng Pháp, lúc là tiếng Do Thái, lúc lại là tiếng Đức, nhưng thường thì tiếng Nga sẽ là chủ đạo.

Những cuộc điện thoại đó tiêu tốn một khoản khổng lồ nhưng ông tôi không nói gì. Mà ngược lại. Rất thường xuyên, và cô không hề biết, ông nhấc điện thoại trong một phòng khác và say sưa lắng nghe câu chuyện. Tôi đến ngồi bên ông, và ông thì thầm dịch lại cho tôi. Chính nhờ thế mà tôi hiểu rằng cô thường xuyên kể về tôi với các chị em họ, cô nói rằng tôi đẹp trai và rất tuyệt, rằng mắt tôi sáng lấp lánh. “Krassavtchik, một hôm ông tôi giải thích sau khi nghe cô gọi tôi bằng từ đó, có nghĩa là đẹp trai.”

Về phần tôi, Natasha khai tâm cho tôi đến với những điều tôi chưa từng biết tới: văn chương, nghệ thuật. Cô giúp tôi mở mắt nhìn ra thế giới. Những lần chúng tôi đi chơi là đến các hiệu sách, các bảo tàng, các triển lãm nghệ thuật. Thông thường, ngày Chủ nhật, chúng tôi đi tàu điện ngầm đến tận Manhattan: mỗi lần chúng tôi thăm một bảo tàng, nào Met, nào MoMA, nào Bảo tàng lịch sử tự nhiên, nào Whitney. Hoặc chúng tôi đến các rạp chiếu phim vắng vẻ cũ kỹ để xem những bộ phim nói những ngôn ngữ mà tôi không hiểu. Nhưng tôi mặc kệ: tôi không nhìn lên màn hình, mà tôi ngắm cô, Natasha. Tôi ngốn ngấu cô bằng mắt, vô cùng bối rối trước người phụ nữ bé nhỏ vô cùng lạ lùng, vô cùng phi thường và vô cùng quyến rũ ấy. Cô sống với những bộ phim: cô phản ứng với các diễn viên, khóc, giận dữ, rồi lại khóc. Và khi bộ phim kết thúc, cô bảo tôi: “Thật hay, đúng không?” còn tôi trả lời rằng tôi chẳng hiểu gì cả. Cô cười, cô nói cô sẽ giải thích hết với tôi. Và thế là cô kéo tôi vào quán cà phê gần nhất, không thể chấp nhận việc tôi không hiểu điều gì, và kể lại cho tôi nghe từ đầu bộ phim. Nhìn chung, tôi không nghe cô nói. Tôi như bị dính vào môi cô. Tôi bận rộn chiêm ngưỡng cô.

Rồi chúng tôi đến các hiệu sách - đó là thời kỳ các hiệu sách còn nở rộ ở New York - và Natasha mua hàng chồng sách, sau đó chúng tôi quay về phòng cô ở nhà ông bà tôi. Cô bắt tôi đọc, cô nằm dài sát cạnh tôi, cuốn một điếu cần và bình thản hút.

Một buổi tối tháng Mười hai, trong khi cô đang gối đầu lên ngực tôi, còn tôi thì phải đọc một tiểu luận về lịch sử nước Nga vì đã dám hỏi cô một câu về việc tan rã của các nước thuộc Liên bang Xô viết, cô sờ nắn bụng tôi.

- Làm sao mà thân hình anh có thể rắn chắc đến thế này? Cô vừa hỏi vừa nhỏm người dậy.

- Tôi không biết, tôi trả lời. Tôi thích tập thể thao.

Cô rít một hơi cần dài rồi lại đặt nó vào chiếc gạt tàn.

- Cởi áo thun của anh ra! Đột nhiên cô ra lệnh cho tôi. Tôi muốn nhìn ngắm thân thể thực của anh.

Tôi vâng lời cô, không chút suy nghĩ. Tôi cảm thấy tim tôi đập rộn ở khắp cơ thể. Tôi cởi trần đứng trước mặt cô, cô ngắm nghía thân hình như tượng tạc của tôi trong ánh tranh tối tranh sáng, đặt một bàn tay lên ngực tôi rồi trượt dần dọc theo thân trên của tôi, những đầu ngón tay cô ve vuốt tôi.

- Tôi tin rằng tôi chưa từng nhìn thấy người nào đẹp đến thế này, Natasha bảo tôi.

- Tôi ư? Tôi mà đẹp sao?

Cô phá lên cười:

- Đương nhiên rồi, đồ ngốc ạ!

Tôi liền bảo cô:

- Tôi thấy tôi không được đẹp trai cho lắm.

Cô vẫn giữ nụ cười tuyệt đẹp trên môi, và thốt ra một câu cho đến giờ vẫn ghi khắc trong tâm trí tôi:

- Những người đẹp không bao giờ tự thấy mình đẹp cả, Jesse ạ.

Cô vẫn vừa mỉm cười vừa ngắm nghía tôi. Tôi như bị cô thôi miên, và tê liệt bởi cảm giác do dự. Cuối cùng, căng thẳng lên đến đỉnh điểm và cảm thấy mình buộc phải phá vỡ bầu không khí im lặng, tôi ấp úng:

- Cô không có bạn trai sao?

Cô nhíu mày với vẻ ranh mãnh rồi trả lời tôi:

- Tôi tưởng anh chính là bạn trai tôi…

Cô sáp mặt cô lại gần mặt tôi và khẽ lướt môi cô lên môi tôi, rồi hôn tôi theo cách tôi chưa từng được hôn. Lưỡi cô quấn quýt vào lưỡi tôi khêu gợi đến mức tôi cảm thấy một cơn xúc động chưa từng biết đến lan khắp cơ thể.

Chuyện của chúng tôi khởi đầu như thế. Kể từ tối hôm ấy, và trong suốt những năm sau đó, tôi không hề rời Natasha.

Cô trở thành trung tâm của cuộc đời tôi, trung tâm suy nghĩ của tôi, trung tâm chú ý của tôi, trung tâm quan tâm của tôi, trung tâm toàn bộ tình yêu của tôi. Và cô đối với tôi cũng giống như thế. Hiếm có người nào yêu và được yêu như tôi đã yêu và được yêu hồi ấy. Ở rạp chiếu phim, trên tàu điện ngầm, ở rạp hát, ở thư viện, ở bàn ăn nhà ông bà tôi, chỗ của tôi bên cạnh cô chính là thiên đường. Và ban đêm trở thành vương quốc của chúng tôi.

1

Tải PDF tài liệu học tập đang trở thành lựa chọn phổ biến cho sinh viên và người đi làm nhờ tính tiện lợi và tiết kiệm thời gian. Tài liệu PDF cung cấp nhiều nội dung từ sách PDF, tài liệu nghiên cứu, đến giáo trình chuyên ngành, giúp người dùng dễ dàng lưu trữ và truy cập trên các thiết bị số. Việc sử dụng tài liệu PDF không chỉ giúp tăng cường kiến thức mà còn hỗ trợ học tập và làm việc hiệu quả hơn.

YÊU CẦU TÀI LIỆU