Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm: Cuộc Phiêu Lưu Huyền Thoại Cho Trẻ Em
Giới thiệu
"Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm" là một trong những tác phẩm kinh điển cho thiếu nhi, được yêu thích trên toàn thế giới trong hơn một thế kỷ. Cuốn sách kể về hành trình phiêu lưu đầy thử thách của cậu bé Stas mười bốn tuổi và cô bé Nell tám tuổi, những người bị bắt cóc và đưa từ kênh đào Suez đến Sudan.
Hành Trình Phiêu Lưu Ly Kỳ
Hai đứa trẻ nhỏ bé phải đối mặt với những hiểm nguy và khó khăn không tưởng trong cuộc hành trình đầy gian khổ. Chúng băng qua sa mạc Sahara nắng cháy, đối mặt với cái nóng khắc nghiệt, vượt qua rừng rậm nhiệt đới trong mùa mưa dầm, nơi đầy rẫy nguy hiểm. Hành trình của chúng trở nên nguy hiểm hơn với mối đe dọa từ những bộ lạc xa lạ và các loài dã thú hoang dã.
Tinh Thần Phiêu Lưu, Lòng Dũng Cảm
Câu chuyện về Stas và Nell là khúc tráng ca về sức mạnh phi thường của lòng dũng cảm và khát khao chinh phục. Hai đứa trẻ không chỉ chiến đấu với những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên mà còn thể hiện ý chí kiên cường, lòng nhân ái và khát khao bảo vệ những điều thân yêu.
Vẻ Đẹp Huyền Bí Của Châu Phi
"Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm" là bức tranh đầy màu sắc về vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của châu Phi. Câu chuyện đưa người đọc đến với những cảnh quan kỳ vĩ, từ sa mạc mênh mông đến rừng rậm nhiệt đới, từ những dòng sông hoang dã đến những ngôi làng cổ kính.
Kết Luận
"Trên Sa Mạc Và Trong Rừng Thẳm" không chỉ là một câu chuyện phiêu lưu hấp dẫn mà còn là một bài học về lòng dũng cảm, nghị lực và tình yêu thương. Cuốn sách hứa hẹn sẽ mang đến cho độc giả nhỏ tuổi những giờ phút giải trí bổ ích và đầy cảm xúc.
Hành Trình Phiêu Lưu Cảm Động Về Lòng Tin Và Sự Quả Cảm
Một Câu Chuyện Về Niềm Hy Vọng Trên Nền Tảng Hoang Dã
"Trên sa mạc và trong rừng thẳm" là một câu chuyện đầy cảm xúc, miêu tả hành trình đầy thử thách của hai đứa trẻ, Sta’s (14 tuổi) và Nel (8 tuổi), khi băng qua miền đông Châu Phi hoang dã để tìm về gia đình. Sau khi thoát khỏi cuộc nổi loạn của quân Madhi, chúng phải đối mặt với một thế giới đầy nguy hiểm, bạo lực và bất công.
Hai Đứa Trẻ Vượt Qua Bi kịch, Mang Lòng Tin Và Hy Vọng
Trong một thế giới tàn bạo, Sta’s và Nel hiện lên như những tia sáng hiếm hoi. Sự kiên cường, lòng tin và sự quả cảm của chúng là ngọn lửa ấm áp sưởi ấm những trái tim băng giá, là động lực giúp chúng vượt qua mọi khó khăn. Hành trình của chúng không chỉ là một cuộc phiêu lưu đầy kịch tính, mà còn là một lời khẳng định về sức mạnh của hy vọng và tình yêu thương.
Nguồn Cảm Hứng Cho Mọi Đứa Trẻ
Hình ảnh cậu bé Sta’s, với bản lĩnh phi thường và tấm lòng nhân ái, là một nguồn cảm hứng bất tận cho mọi đứa trẻ. Câu chuyện về Sta’s và Nel là một lời khích lệ, nhắc nhở chúng ta rằng dù đối mặt với bất kỳ khó khăn nào, niềm tin, sự quả cảm và hy vọng vẫn là những vũ khí lợi hại nhất để chiến thắng.
Lời Kết
"Trên sa mạc và trong rừng thẳm" là một câu chuyện đầy cảm xúc, pha trộn giữa yếu tố phiêu lưu và nhân văn. Câu chuyện không chỉ là một cuộc hành trình đầy thử thách, mà còn là một lời khẳng định về sức mạnh của tình yêu thương, lòng tin và hy vọng, mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về cuộc sống và con người.
Ở Xứ Vàng
Cuốn sách Ở xứ vàng mà bạn đang có trong tay gồm 6 truyện chọn lọc của Henryk Sienkiewicz: Những nhầm lẫn khôi hài, Ở xứ vàng, Người gác đèn biển, Ánh sáng chốn u minh, Nhạc công đại phong cầm làng Ponikla và Nàng thứ Ba.
Viết về những đề tài, bối cảnh và số phận khác nhau, thế nhưng dường như có một sợi dây vô hình gắn kết sáu tác phẩm độc lập mà qua đó hiện lên một bức tranh toàn cảnh về Ba Lan, nơi có tâm hồn con người trú ngụ trên từng tiếng thì thầm dân tộc.
Khi mà, ở một thế giới rộng hơn vượt xa ngoài biên giới Ba Lan, Những nhầm lẫn khôi hài, Ở xứ vàng, Người gác đèn biển như bật lên một tiếng nói đa âm sắc về số phận những kẻ tha hương, bôn ba đến tận biệt xứ tìm kiếm một cơ hội thay đổi cuộc đời. Họ tìm đến Mỹ, vì mỏ dầu (Những nhầm lẫn khôi hài), vì vàng (Ở xứ vàng), vì những xô đẩy của cuộc đời (Người gác đèn biển) hay vì một cuộc trốn chạy khỏi thực tiễn cũ mèm, nhàm chán (Mary - Ở xứ vàng). Nhưng, nói cho tận cùng lý lẽ, dường như tất cả những ai dứt áo ra đi làm sao tránh khỏi một lý do trốn tránh, chẳng phải vì trốn cái nghèo, cái chật vật, cái lẩn quẩn nhàm chán mà người ta lao mình, người ta dấn thân vào những điều run rủi. Mà, như thế có gì là sai quấy. Ở đây, mở ra trong từng trang giấy là những con người vụng về nơi xứ lạ, bằng những cách riêng mình, mỗi người chọn lấy một lối thích nghi. Và, đó cũng là những bình diện khác của cuộc đời xa xứ, khi mà nơi thì yên ả vươn lên như trấn Struck Oil (Những nhầm lẫn khôi hài), nơi lại bão dông khắc nghiệt như Sacramento (Ở xứ vàng). Mà, đâu phải ở cái nơi hừng hực mùi tiền, tiếng cười đều bị tắt ngấm. Không, vẫn giòn giã, dù cho đôi khi nó bật lên là vì một điều ngớ ngẩn vô hại, một cái cá tính khập khiễng với số đông hay thiết thực hơn là thần vận may gõ cửa,… Nó vẫn đến, vẫn ở lại, một liều thuốc còn lành hơn leroa mà ông bác sĩ “thiên tài” “bồi bổ” cho bệnh nhân. Nơi tha hương kia sẽ thử thách lòng kiên trường của con người, dưỡng cho anh ta dày dạn, rồi cũng chính nơi gai góc đó, người ta chợt ấm lòng trước những bao bọc xa lạ, để thay vì súng đạn, người ta kết gắn nhau bằng tình người. Trái tim chân thành sẽ đơm những mầm tình cảm dịu dàng, người ta lại biết yêu thương, lại thức dậy tình yêu vô vụ lợi, tha thiết, dâng hiến hết thảy (Rows và Mary - Ở xứ vàng, Hans và Lora – Những nhầm lẫn khôi hài). Để rồi, sau bao nhiêu dông tố cuộc đời, điều khát khao sau cùng lại là tiếng gọi thân thương đầy thổn thức - tiếng gọi quê nhà (Người gác đèn biển).
Giới thiệu về tác giả
Henryk Sienkiewicz (5 tháng 5 năm 1846 - 15 tháng 11 năm 1916) sinh ra trong một gia đình quý tộc nghèo ở làng Wola Okrzejska, Ba Lan, sau cùng gia đình chuyển về Warszawa. H. Sienkiewicz là một nhà báo tài năng song chính văn chương mới đem lại danh tiếng rực rỡ, đưa ông trở thành một trong những nhà văn Ba Lan nổi tiếng nhất cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Năm 1905, ông đã được Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển trao tặng trao tặng Giải thưởng Nobel văn chương vì những cống hiến cả đời. Những tác phẩm tiêu biểu của H. Sienkiewicz có thể kể đến như: tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện Stary sługa (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy, 1886), Pan Wołodyjowski (Ngài Wolodyjowski, 1888), Ogniem i mieczem (Lửa và gươm, 1884), tiểu thuyết Krzyżacy (Hiệp sĩ Thập tự), tiểu thuyết Quo vadis (1896),...
Hiệp Sĩ Thánh Chiến
Vào đầu thế kỷ XV, liên minh Ba Lan - Litva hùng mạnh đã trở thành chướng ngại vật chính ngăn cản sự bành trướng của dòng tu Ki-tô giáo mang tên Giáo đoàn Thánh chiến. Việc hiệp sĩ trẻ Zbyszko tấn công sứ giả của Giáo đoàn và phải lên đoạn đầu đài lại càng làm mâu thuẫn này thêm trầm trọng, kéo theo màn “mỹ nhân cứu anh hùng” cùng những cuộc trả đũa về sau - tất cả góp phần thổi bùng ngòi lửa chiến tranh đã âm ỉ từ lâu.
Dõi theo quá trình trưởng thành của chàng Zbyszko về cả phương diện tình cảm lẫn sự trải đời, câu chuyện là khúc trường thiên ca tụng sức mạnh quả cảm của những con người đầy nghĩa hiệp mà rất đỗi thủy chung. Cuộc đụng đầu lịch sử giữa các dân tộc Slav với thế lực xâm lược của Giáo đoàn Thánh chiến mang ý nghĩa của cuộc đối kháng chính - tà, khiến tác phẩm trở thành một lời cổ vũ hào hùng cho các dân tộc đang chiến đấu không tiếc xương máu để giành độc lập, tự do. Tính chặt chẽ của cấu trúc, nghệ thuật đan xen mật thiết của các tuyến tình tiết, sự hài hòa giữa hai mặt mô tả số phận chung của toàn dân tộc và số phận riêng tư của các nhân vật chính đã khiến các nhà phê bình văn học đánh giá Hiệp sĩ Thánh chiến là tác phẩm hoàn thiện nhất trong những tiểu thuyết lớn của Henryk Sienkiewicz.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ:
Henryk Sienkiewicz (1846 - 1916) là văn hào Ba Lan sinh ra tại Wola Okrzejska trong một gia đình gốc gác quý tộc. Ông từng theo học luật học, y học trước khi chuyên tâm vào sự nghiệp viết lách. Khởi đầu bằng những tiểu luận phê bình đăng báo, ông dần sáng tác hàng loạt truyện ngắn và vừa, rồi tập trung vào thể loại tiểu thuyết lịch sử vào năm 1892. Sau Quo vadis,ông dành thời gian vào việc viết cuốn tiểu thuyết lịch sử Hiệp sĩ Thánh chiến mà mình thai nghén từ lâu. Công việc sáng tác kéo dài ròng rã bốn năm trời, và nhà văn đã cho đăng dần tác phẩm trên các tờ báo Ba Lan, mãi đến năm 1900mới in thành sách. Những giá trị về nội dung và nghệ thuật lớn lao đã khiến cho Hiệp sĩ Thánh chiến trở thành tài sản văn hóa tinh thần quý giá của dân tộc Ba Lan. Ông đạt giải Nobel Văn học năm 1905. Sau thời kỳ bệnh tật kéo dài, Henryk Sienkiewicz chuyển hướng sang viết cho độc giả trẻ tuổi hơn, thành tựu nổi bật có Trên sa mạc và trong rừng thẳm (1910 – 1913). Ông qua đời tại Vevey, Thụy Sĩ.
GIỚI THIỆU DỊCH GIẢ:
Nguyễn Hữu Dũng (02/11/1948) là một người con của quê hương Điện Ngọc, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông là phó giáo sư - tiến sĩ về động lực học, chuyên ngành động cơ đốt trong, từng có nhiều năm giảng dạy ở Trường Đại học Thủy sản và công tác tại Vụ Khoa học Công nghệ Bộ Thủy sản. Từ những năm tám mươi của thế kỷ XX, ông đã được bạn đọc biết đến trong vai trò dịch giả - người có công giới thiệu nhiều tác phẩm Ba Lan đến với độc giả Việt Nam, tiêu biểu như Trên sa mạc và trong rừng thẳm, Đường công danh của Nikodem Dyzma, Con hủi…
Henryk Sienkiewicz là tác giả mà ông vô cùng yêu thích, và các tác phẩm của nhà văn này luôn giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim ông, như ông đã từng chia sẻ: “Có lẽ văn của Henryk Sienkiewicz cũng có điểm tương đồng với động cơ đốt trong, nó cháy bằng chất gì đó trong tôi và trong những bạn đọc Việt Nam suốt thời gian qua. Đã từng biết đến tài năng của Henryk Sienkiewicz qua các kiệt tác Quo vadis, Hania, Trên bờ biển sáng... độc giả chắc chắn sẽ càng yêu mến ông qua tiểu thuyết Hiệp sĩ Thánh chiến. Tôi đã dành dụm thời gian suốt ba mươi năm qua (1990 - 2020) để dịch tác phẩm kinh điển này, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!”
1. Hiệp Sĩ Thánh Chiến (Bộ Hộp 2 Tập)
2. Bộ Bo Góc Bảo Quản
Quo vadis vẽ nên một bức tranh về thời kỳ sơ khai của Thiên chúa giáo, mấy chục năm sau ngày Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút. Câu chuyện xoay quanh mối tình của Vinicius và Lygia, trong bối cảnh rộng lớn hơn là vụ hỏa tai thành Roma năm 64, đưa đến cuộc khủng bố giáo dân sau đó. Tình yêu của đôi trẻ là hạt mầm tốt đẹp đã được gieo bởi đức tin chính vào những thời khắc ác nghiệt tăm tối nhất, thời của bạo chúa Nero và xã hội La Mã trụy lạc sa đọa. Quo vadis tái hiện sinh động trước mắt ta một thành Roma đầy màu sắc, có những tiện dân từ mọi miền thế giới chen chúc nhau trên những con đường dẫn tới Forum Romanum, có những tiệc rượu trong tiếng nhạc lời thơ Anacreon, có tiếng sư tử gầm vang trong đấu trường, và có tiếng lửa thiêu da thịt kẻ tuẫn đạo treo mình trên thập tự.
Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật lớn lao, từ khi ra đời, Quo vadis đã được dịch sang hơn bốn mươi thứ tiếng với nhiều lần chuyển thể lên sân khấu và màn ảnh rộng, cho đến nay vẫn là kiệt tác bất hủ của văn hào Henryk Sienkiewicz được mọi thế hệ độc giả khắp thế giới đón nhận.
Nhận xét về tác phẩm:
“Sienkiewicz viết Quo vadis cho toàn thế giới, và thế giới khắc cốt ghi tâm điều đó.” James Michener
“Kỹ năng của Sienkiewicz trong việc tái hiện thành Roma cổ đại với tất cả sự suy đồi của nó chính là một trong nhiều nét khiến độc giả say mê Quo vadis.” - Andrzej Karcz
“… một trong những tác phẩm thành công phi thường nhất từng được ghi nhận trong bộ từ điển, cả ở khía cạnh doanh số lẫn giá trị văn chương.” - Bách khoa thư Larousse
“Quo vadis sẽ gây chú ý hơn bất cứ thứ gì tôi từng viết cho tới nay.” - Henryk Sienkiewicz
Thông tin tác giả: Henryk Sienkiewicz (1846–1916) là văn hào Ba Lan sinh ra tại Wola Okrzejska trong một gia đình gốc gác quý tộc. Ông từng theo học các môn luật học, y học trước khi chuyên tâm vào sự nghiệp viết lách. Khởi đầu bằng những tiểu luận phê bình đăng báo, ông dần sáng tác hàng loạt truyện ngắn và vừa xuất sắc, rồi tập trung vào thể loại tiểu thuyết lịch sử vào năm 1892. Đỉnh cao sự nghiệp của ông là Quo vadis (1895–1896), tác phẩm kể về cuộc bách hại tín đồ Thiên chúa giáo dưới thời bạo chúa Nero, góp phần lớn giúp ông đoạt giải Nobel Văn học 1905. Sau thời kỳ bệnh tật kéo dài, ông chuyển hướng sang viết cho độc giả trẻ tuổi hơn, thành tựu nổi bật có Trên sa mạc và trong rừng thẳm (1910–1913). Ông qua đời tại Vevey, Thụy Sĩ.
Truyện kể về cuộc phiêu lưu trên vùng đất Đông Phi của cậu bé mười bốn tuổi Xtas cùng cô bé Nen tám tuổi trong hành trình trốn chạy khỏi tay bọn bắt cóc. Trải qua không biết bao hiểm nguy, đối mặt với nhiều gian nan thử thách, khi thì trên sa mạc nắng cháy, lúc giữa rừng già thẳm sâu, cuối cùng, Xtas và Nen cũng đoàn tụ được với gia đình.
Là tác phẩm duy nhất viết cho thiếu nhi của nhà văn Ba Lan nổi tiếng Henrich Sienkievich, người đoạt Nobel văn học năm 1905, ngay từ khi ra đời, Trên sa mạc và trong rừng thẳm đã được hoan nghênh nhiệt liệt, được tái bản ngay và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Và trong suốt một thế kỷ qua, tác phẩm đề cao khát vọng đi tới những chân trời xa, thực hiện những kì tích phi thường này luôn được coi là một trong những cuốn truyện hay nhất dành cho thiếu nhi.
Sách được tái bản nhiều lần.
Tải PDF tài liệu học tập đang trở thành lựa chọn phổ biến cho sinh viên và người đi làm nhờ tính tiện lợi và tiết kiệm thời gian. Tài liệu PDF cung cấp nhiều nội dung từ sách PDF, tài liệu nghiên cứu, đến giáo trình chuyên ngành, giúp người dùng dễ dàng lưu trữ và truy cập trên các thiết bị số. Việc sử dụng tài liệu PDF không chỉ giúp tăng cường kiến thức mà còn hỗ trợ học tập và làm việc hiệu quả hơn.